Cũng như nhiều tỉnh, thành phố khác thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Long là tỉnh đa dân tộc gồm người Kinh, Khmer, Hoa... trong đó đồng bào DTTS chủ yếu sinh sống tại các huyện Vũng Liêm, Tam Bình, Trà Ôn và thị xã Bình Minh. Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, bà con các dân tộc ở Vĩnh Long được thụ hưởng nhiều chương trình, chính sách đặc thù vùng đồng bào DTTS như Chương trình 135, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; giai đoạn I: Từ năm 2021 đến năm 2025... Nhờ vậy, đời sống bà con không ngừng được cải thiện và nâng lên. Đến nay, mạng lưới giao thông tại các địa phương vùng có đông đồng bào dân tộc sinh sống được đầu tư xây dựng khá hoàn chỉnh giúp cho việc đi lại, vận chuyển hàng hóa thuận tiện hơn. Những căn nhà dột nát, xiêu vẹo dần được thay thế bằng những căn nhà kiên cố, sạch đẹp. Sự đổi thay tại các phum, sóc cho thấy đời sống của bà con các DTTS, nhiều nhất là đồng bào Khmer ở Vĩnh Long ngày càng đi lên.
Cũng như nhiều tỉnh, thành phố khác thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Long là tỉnh đa dân tộc gồm người Kinh, Khmer, Hoa... trong đó đồng bào DTTS chủ yếu sinh sống tại các huyện Vũng Liêm, Tam Bình, Trà Ôn và thị xã Bình Minh. Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, bà con các dân tộc ở Vĩnh Long được thụ hưởng nhiều chương trình, chính sách đặc thù vùng đồng bào DTTS như Chương trình 135, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; giai đoạn I: Từ năm 2021 đến năm 2025... Nhờ vậy, đời sống bà con không ngừng được cải thiện và nâng lên. Đến nay, mạng lưới giao thông tại các địa phương vùng có đông đồng bào dân tộc sinh sống được đầu tư xây dựng khá hoàn chỉnh giúp cho việc đi lại, vận chuyển hàng hóa thuận tiện hơn. Những căn nhà dột nát, xiêu vẹo dần được thay thế bằng những căn nhà kiên cố, sạch đẹp. Sự đổi thay tại các phum, sóc cho thấy đời sống của bà con các DTTS, nhiều nhất là đồng bào Khmer ở Vĩnh Long ngày càng đi lên.
Lúc sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: Thực chất của vấn đề dân tộc là văn hóa và cán bộ. Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta suy cho cùng là làm cho các dân tộc được sống trong hòa bình, tự do, được nâng cao đời sống vật […]
Lúc sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: Thực chất của vấn đề dân tộc là văn hóa và cán bộ. Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta suy cho cùng là làm cho các dân tộc được sống trong hòa bình, tự do, được nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Ai là thành phần có vai trò quan trọng trước mắt và lâu dài đối với sự phát triển của các dân tộc thiểu số nói chung và văn hóa nói riêng nếu như không phải là đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Văn hóa là quan điểm, là nội dung chính sách, là hệ quả kiểm chứng thước đo của các loại hình chính sách (kinh tế, xã hội, môi trường, cán bộ, an ninh, quốc phòng….) của Đảng và Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số. Vì lẽ đó mà chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực văn hóa có một v
Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Đó là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cộng đồng 54 dân tộc (1 dân tộc đa số và 53 dân tộc thiểu số) sống trên đất nước ta đều có những giá trị văn hóa mang các sắc thái riêng được bổ sung cho nhau, làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam. Các thành tựu văn hóa của các dân tộc anh em góp phần củng cố sự thống nhất dân tộc – cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và đại đoàn kết các dân tộc và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em.
Trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ dành độc lập dân tộc, trong xây dựng đất nước thời bình, hội nhập và phát triển toàn cầu hóa hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn ý thức và coi trọng văn hóa quốc gia, văn hóa tộc người trong phát triển. Đồng thời với các quan điểm, chính sách giải quyết các vấn đề quân sự, kinh tế, ngoại giao… thì văn hóa được nhìn nhận với tư cách là “soi đường cho quốc dân đi” (Hồ Chí Minh). Văn hóa các dân tộc thiểu số là một bộ phận của văn hóa quốc gia, là kho vốn vô giá tạo dựng đặc điểm văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa các dân tộc thiểu số là tài nguyên tạo nên động lực tinh thần mạnh mẽ trong công cuộc bảo vệ và xây dựng, phát triển đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay. Qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt trong thời kỳ đối mới từ 1986 đến nay Đảng và Nhà nước đã ngày càng có những chính sách cụ thể sát hợp về văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng gần đây tiếp tục khẳng định và làm rõ: “Trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội đều phải đề cao nhân tố văn hoá, con người. Mọi hoạt động văn hoá, từ bảo tồn, phát huy các di sản lịch sử, văn hoá; phát triển văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản đến bảo tồn, phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số, văn hoá tôn giáo, xây dựng thiết chế văn hoá,… đều phải phục vụ thiết thực sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hoá, con người.”
53 dân tộc thiểu số với kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo, phong phú và đa dạng bao gồm: Kiến trúc, trang phục, ẩm thực, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, dân ca, dân nhạc, dân vũ,… có thể xem văn hóa các dân tộc thiểu số như “bức tranh thổ cẩm” được chính đồng bào thêu dệt tinh tế và tươi màu rực rỡ bởi những nét văn hóa đậm đà bản sắc của chính cộng đồng dân tộc mình. Đời sống kinh tế ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong thời gian 15 năm qua đã từng bước được nâng cao do có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách đặc thù, tuy vậy vùng miền núi và dân tộc thiểu số tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với bình quân chung của cả nước, kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém. Mặc dù đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn so với mặt bằng chung của cả nước, song 53 dân tộc thiểu số với rất nhiều nét văn hóa đặc sắc, phong phú từ đó góp phần tạo nên đời sống văn hóa bản sắc và sinh động.
Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” mà Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa cũng như công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta. Có thể khẳng định rằng, trong 15 năm qua các nhiệm vụ đặt ra trong Nghị quyết đã được đồng bộ triển khai và đạt được những hiệu quả rất đáng khích lệ. Đối với công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số cũng có những bước tiến quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự giao lưu và giao thoa văn hóa cũng diễn ra mạnh mẽ, nhưng vẫn đảm bảo tiên tiến, đậm đà bản sắc.
Trong thời ký đổi mới, vấn đề văn hóa quốc gia nói chung và văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng được Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII định hướng và tạo nên luông sinh khí mới chấn hưng các giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc. Các bộ, ban ngành chức năng, chính quyền các cấp đã triển khai, cụ thể các quan điểm, nhiệm vụ thành nhiều chính sách văn hóa cụ thể nói chung và ở vùng dân tộc thiểu số nói riêng. Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch) đã cụ thể thành những nhiệm vụ trọng tâm về công tác văn hóa ở vùng dân tộc thiểu số miền núi thể hiện qua hệ thống văn bản trọng tâm trong từng giai đoạn. Các vấn đề chính sách được tập trung vào các vấn đề:
– Công tác Văn hóa – Thông tin, Đề án xe văn hóa – thông tin lưu động tổng hợp, Công tác văn hóa thông tin biên giới, bờ biển, vùng Tây Nguyên, vùng đổng băng sông Cửu Long, 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc;
– Xây dựng huyện điểm ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số;
– Bảo tồn làng, bản buôn các dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn;
– Đề án bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số;
– Phủ sóng phát thanh, truyền hình vùng dân tộc thiểu số;
– Bảo tồn tiếng nói chữ viết các dân tộc;
– Đưa các ấn phẩm, hoạt động văn hóa vào vùng đồng bào các dân tộc;
– Thành lập các hội nghiên cứu, bảo tồn văn hóa, văn nghệ các dân tộc;
– Thành lập các thiết chế văn hóa, bảo tàng Văn hóa các dân tộc;
– Phát triển du lịch văn hóa vùng đồng bào các dân tộc thiểu số;
– Đào tạo tri thức, nguồn lực con người các dân tộc thiểu số;
– Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vùng dân tộc thiểu số…
– Coi trọng và phát huy vai trò của người dân – chủ thể của văn hóa.
Nhìn chung các chính sách văn hóa trên được các Bộ ban ngành, cơ quan Trung ương, chính quyển các cấp quan tâm triển khai và mang lại hiệu quả quan trọng, tạo nên diện mạo mới của văn hóa các dân tộc thời kỳ đổi mới với những thành quả được đánh giá trong văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước và các địa phương. Tuy nhiên bên cạnh đó đồng thời cũng đặt ra những vấn đề cần được quan tâm tâm trong giai đoạn mới.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số còn nhiều thực trạng cần được khắc phục nhằm thực hiện tốt hơn trong thời gian tới, trong đó có thể nêu lên một số thực trạng cấp bách như sau:
Việc điều tra, nắm bắt thực trạng về di sản văn hóa các tộc người thiểu số và vùng miền chưa thường xuyên, chưa kịp thời đầy đủ, chưa xây dựng được bản đồ quy hoạch, kế hoạch bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa các tộc người và vùng miền sát thực cho từng giai đoạn nên còn mang tính định hướng chung, thiếu tính định lượng cụ thể…
Chưa thể chế hóa những chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước trong công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa truyền thống các tộc thiểu số, đặc biệt là những dân tộc có số dân rất ít hoặc ở những vùng đặc biệt khó khăn đang có nguy cơ cao bị đồng hóa, mất bản sắc…
Có nhiều di sản văn hoá đặc sắc của các tộc thiểu số chưa được nghiên cứu, lập hồ sơ để tôn vinh công nhận là là di sản cấp tỉnh hoặc cấp quốc gia; đa số nghệ nhân của các tộc thiểu số chưa được quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện để phát huy trong việc bảo tồn những di sản văn hóa mà họ là người nắm giữ nên nhiều giá trị truyền thống nằm trong những “di sản sống” đó lần lượt mất đi theo năm tháng…
Việc phục dựng một số sinh hoạt văn hóa truyền thống (lễ hội…) của các dân tộc thiểu số ở nhiều địa phương theo kiểu “sân khấu hóa” tuy có tạo ra được không khí và dư luận trong quần chúng về việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa nhưng lại có thể làm biến dạng, méo mó phần nào giá trị của di sản…
Việc giới thiệu, quảng bá văn hóa các dân tộc thiểu số theo nhiều mô hình, cấp độ tuy có lúc có nơi được chú ý, người dân hoan nghênh, phấn khởi nhưng khi có một vài ý kiến cho rằng “quá nhiều” lễ hội lại bị “co” lại khiến không ít người băn khoăn về số phận của những di sản đã và đang có nguy cơ bị lãng quên… Nhiều giá trị văn hóa truyền thống chưa được giới thiệu quảng bá để trả về với chủ thể sáng tạo ra nó là đồng bào các dân tộc nên việc phát huy tác dụng xã hội còn hạn chế…
Việc sử dụng, phát huy và xây dựng đội ngũ cán bộ làm văn hóa ở vùng dân tộc thiểu số, nhất là cán bộ người các tộc thiểu số tuy có được chú ý hơn nhưng chưa đáp ứng nhu cầu của phong trào, chưa theo quy hoạch lâu dài và ổn định;
Việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vùng dân tộc thiểu số có nhiều cố gắng, mức hưởng thụ của đồng bào về văn hóa được cải thiện nhưng còn nhiều hạn chế về mặt bằng về hưởng thụ văn hóa; các thiết chế văn hóa truyền thống chưa được nghiên cứu để bảo tồn, phát huy
Một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ các quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp đề ra, có lúc, có nơi chưa thống nhất, đồng bộ nên nhiều phong trào thiếu tính thiết thực, chưa thật sự thấm sâu vào các lĩnh vực đời sống xã hội.
Vùng dân tộc và miền núi, tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với bình quân chung của cả nước, kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, một số tập tục lạc hậu có xu hướng phát triển. Bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số chưa được phát huy đúng mức, mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào còn thấp.
Nguồn lực đầu tư để bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số mỏng, mang tính bình quân, dàn trải, phân tán, nhỏ giọt thiếu kịp thời, tập trung, đồng bộ. Một số chủ trương, kế hoạch, dự án đã xây dựng và phê duyệt không được thực hiện hoặc chậm tiên độ, không đến nơi đến chốn, hiệu quả không cao.
Nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa được nghiên cứu, đánh giá một cách bài bản, thống nhất, chưa được tôn vinh xứng đáng;
Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động văn hoá ở vùng dân tộc thiểu số còn quá nghèo nàn, lạc hậu.
Phong trào văn hoá, văn nghệ ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số chưa phát triển đồng đều cả về số lượng và chất lượng. Nhiều lúc, nhiều nơi hoạt động cầm chừng do thiếu cán bộ có kinh nghiệm tổ chức và hiểu biết nghiệp vụ, chưa có sự hỗ trợ cần thiết của Nhà nước nên khó phát triển bền vững.
Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa ở cơ sở đa số chưa được quy hoạch, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ nên trình độ còn hạn chế, hiệu quả công tác chưa cao.
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở vùng dân tộc thiểu số, xây dựng làng, bản, buôn, phum, sóc, thôn, gia đình văn hóa còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng chưa cao do nhiều nguyên nhân: nghèo, địa bàn khó khăn, phức tạp, còn dập khuôn, máy móc, cứng nhắc, các tiêu chí chưa chú ý đến đặc điểm văn hóa truyền thống, thiếu vận dụng linh hoạt sáng tạo cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng dân tộc…
Chính sách văn hóa đối với các dân tộc thiểu số ở nước ta là một bộ phận quan trọng, tất yếu của việc xây dựng, bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên trong xu thế, vận động, phát triển của đất nước các vấn đề chính sách không chỉ được soi sáng bởi các quan điểm của Đảng mà còn chịu tác động của nhiều yêu tố văn hóa, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế. Đây cũng là thực trạng đặt ra nhiều vấn về lý luận và thực tiến cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Đó cũng là yêu cầu đặt ra đối với ngành Khoa học xã hội và Nhân văn, của viện Hàn lâm KHXH và cơ quan ban ngành hữu quan. Vấn đề cần được sự quan tâm hợp tác nghiên cứu cùa các nhà khoa học và quản lý trong những năm tới với cái nhìn đổi mới trong tư duy quản lý khoa học, hợp tác nghiên cứu mới có được những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra./.
Tiếp theo Chương trình làm việc tại Phiên họp thứ 38, sáng 8/10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035.
Xây dựng môi trường văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm của ngành văn hóa, thể thao và du lịch. Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công tác xây dựng môi trường văn hóa cần căn cứ vào các đặc điểm riêng của từng địa phương. Những đặc điểm này đòi hỏi phải có chính sách, nguồn lực và phương thức phù hợp.
Phú Yên nằm trong khu vực duyên hải Nam Trung Bộ có hệ thống giao thông kết nối thuận lợi. Với vị trí địa lý đặc biệt, nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và hệ thống di sản văn hóa phong phú tạo tiềm năng, lợi thế lớn để phát triển kinh tế du lịch. Thời gian qua, du lịch Phú Yên đang quan tâm đầu tư hạ tầng cơ sở, nỗ lực thực hiện xúc tiến, quảng bá du lịch, từng bước hình thành thương hiệu, trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và du khách trong và ngoài nước. Vùng đất “hoa vàng trên cỏ xanh” hiện đang được ví như một “nàng công chúa đang thức giấc” với nhiều tiềm năng, lợi thế vốn có đang được khai thác, bảo tồn để phát triển du lịch. Hiện nay, Phú Yên đang là điểm đến được nhiều du khách chọn lựa trong hành trình du lịch vùng Nam Trung Bộ.
Được sự đồng ý của Chính phủ về việc mở cửa hoàn toàn hoạt động hàng không, xuất nhập cảnh và du lịch quốc tế, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã thông tin những điểm mới nhất trong phương án đề xuất dự kiến áp dụng từ ngày 15/03/2022 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, lấy ý kiến các bộ, ngành trước khi công bố chính thức. Đây là tín hiệu rất khả quan với nền kinh tế-xã hội và ngành du lịch nước nhà nhưng vẫn còn đó không ít thách thức, đòi hỏi những giải pháp phù hợp nhằm phát huy hiệu quả khi triển khai, thực hiện chủ trương kịp thời và đúng đắn này.
Nằm ở trung tâm khu vực trung du và miền núi phía Bắc, Yên Bái là trung điểm của tuyến đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai kết nối tới vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng duyên hải Bắc Bộ; là điểm giữa của tuyến đường sắt liên vận trên hành lang giao thương kinh tế quốc tế kết nối các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh qua Côn Minh, Trung Quốc đến các nước Đông Bắc Á, Châu Âu và các nước ASEAN; giữ vai trò bản lề mở ra tiểu vùng kinh tế – du lịch trọng điểm Tây Bắc phía hữu ngạn sông Hồng và Đông Bắc phía tả ngạn sông Hồng.